top of page

Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác

Dịch Già: Sakya Minh-Quang

Tâm Đại Thừa là căn bản phổ độ chúng sinh

 

Hán Văn
 

Phiên âm: 

     Đệ bát giác tri: Sinh tử xí nhiên, khổ não vô lượng, phát Đại thừa tâm, phổ tế nhất thiết, nguyện đại chúng sanh, thọ vô lượng khổ, linh chư chúng sanh, tất cánh đại lạc.

Dịch nghĩa:
     Điều giác ngộ thứ tám: Sinh tử luôn thiêu đốt, khổ não thật vô biên, nên phát tâm Đại thừa, cứu độ khắp tất cả, nguyện thay thế chúng sinh, gánh chịu vô lượng khổ, khiến cho tất cả loài, đều được đại an lạc.

     

     Giảng giải

 

     Tám điều giác ngộ của Bồ tát mà Kinh này nói, điều thứ nhất là thế gian quan của Phật giáo; đều thứ hai đến điều thứ bảy là nói nhân sinh quan của Phật giáo.   Điều giác ngộ cuối cùng này là tông yếu của Kinh, thuyết minh: Đại thừa tâm là căn bản phổ độ chúng sinh.

     Chúng ta đọc Kinh này từ đầu đến cuối đều nói về thế gian là vô thường, khổ không, vô ngã, bất tịnh, cho đến ngũ dục là tai họa, đa cầu là tội lỗi, phải lìa sinh tử, phải ra ba cõi, thì dường như thuộc về tư tưởng Tiểu thừa.  Nhưng tông chỉ chính yếu của Kinh này là muốn người học Phật phát tâm đại từ bi, độ khắp chúng sinh; thay chúng sinh đảm đương khổ nạn.  Đây hoàn toàn là tư tưởng Đại thừa nhập thế.

     Cuộc sống độc thiện kỳ thân, mang nặng màu sắc chủ nghĩa cá nhân.  Nhưng hành giả Đại thừa chẳng những cầu giải thoát cho riêng mình, mà còn mang bi nguyện cứu đời giúp người, làm những việc lợi lạc cho hữu tình trong xã hội.  Đây chính là ý chỉ và tâm yếu của Kinh này.

    
     

Bài Giảng Thứ IX

Kinh Sách

  • Lời Giới Thiệu

  • Kinh Bát Đại Nhân Giác

  • Lược Sử Ngài An Thế Cao

  • Bài Giảng thứ I

  • Bài Giảng Thứ II

  • Bài Giảng Thứ III

  • Bài Giảng Thứ IV

  • Bài Giảng Thứ V

  • Bài Giảng Thứ VI

  • Bài Giảng Thứ VII

  • Bài Giảng Thứ VIII

  • Bài Giảng Thứ IX

  • Bài Giảng Thứ X

     Đức Phật thuyết Pháp, trong rất nhiều Kinh điển đều lấy hàng Tỳ kheo làm đối tượng.  Nhưng Kinh Bát Đại Nhân Giác này lại thiên về Phật tử tại gia, nhằm hướng dẫn hàng cư sĩ học Phật phải làm gì để cải thiện cuộc sống, nhận thức thế gian như thế nào, cho đến làm sao để phổ độ chúng sinh.

     Lời văn của Kinh này tuy ngắn gọn, song thực sự có thể đại biểu cho tư tưởng Tiểu thừa, Đại thừa trong Phật giáo.  Theo Kinh này, hành giả muốn tu học Bồ tát đạo, bước đầu tiên phải tu Pháp môn Tiểu thừa.  Cho nên, hành giả trước hết phải đối với danh lợi giả dối trong thế gian triệt để buông bỏ, rèn luyện thân tâm, tích cực chuẩn bị đạo lực đến mức không còn bị thế gian ô nhiễm, rồi sau mới tùy nghi bước vào cuộc đời cứu giúp chúng sinh.  Đây mới gọi là Bồ tát chân chính.

     Không luận là hành giả Tiểu thừa thiên về thoát ly thế gian, hay hành giải Đại thừa thiên về phổ độ chúng sinh, cả hai đều có cái nhìn chung là: Sinh tử luôn thiêu đốt, khổ não thực vô biên.

     Chúng sinh trong vòng luân hồi gây tạo biết bao tội lỗi.  Thân phạm sát sinh, trộm cướp, tà dâm; tâm đầy tham lam, sân hận, si mê.  Những nghiệp tội vô lượng vô biên đó, như ngọn lửa trong kiếp hỏa đốt cháy thế gian, thiêu đốt thân tâm, khiến chúng sinh phải chịu biết bao khổ não.  Nói đến khổ não vô lượng, trong Kinh này cũng tùy lúc nói có hai khổ, ba khổ, tám khổ, v.v... Tóm lại Ta Bà là thế giới khổ đau.  Văn trước chúng tôi đã từng nói qua thân có các khổ về già bệnh chết; tâm có các khổ về tham sân si; gia đình có các khổ về ân ái biệt ly; quyến thuộc có các khổ về không được hòa hợp; xã hội có các khổ về cầu muốn không được, oán thù gặp nhau; quốc gia có các khổ về chiến tranh, giặc giả; thiên nhiên có các khổ về lũ lụt, động đất, giông bão...

     Khổ chi phối thế gian, bức bách chúng sinh.  Mục đích của chúng ta học Phật là giải thoát đau khổ.  Nhân sinh là khổ.  Nhưng chúng ta cần phải hỏi: Khổ từ đâu ra?  Khổ từ đa dục mà ra.  Đa dục từ chỗ nào có?  Đa dục từ chấp ngã có.  Vì sao chấp ngã gây ra khổ?  Vì sự tương quan giữa ngã chấp và pháp chấp không được điều hòa.  Có cái khổ do mình và vật mà có, đó là do mình mong cầu vật chất mà không thỏa mãn.  Có cái khổ do mình và người mà có, đó là do quan hệ đụng chạm giữa ta và người.  Có cái khổ do mình và thân tâm mà có, đó là già, bệnh, phiền não, vốn đi theo, cùng có mặt với sinh.  Có cái khổ do mình và dục vọng cộng với nhận thức mà có, đó là do nội tâm chúng ta nhận thức thế gian sai lầm mà ra.  Chúng ta bị khổ não bao vây, không luận là ai, cũng đều có nguyện vọng chung là giải thoát đau khổ.  Cho nên trách nhiệm của Bồ tát là phải phát tâm Đại thừa, cứu độ cho tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ ách.

     Nói đến cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ ách, có chia ra hai cách khác nhau.  Một là trước cứu độ cho mình rồi sau cứu độ người khác.  Hai là trước cứu độ người khác, còn mình tuy chưa được độ vẫn không cần gấp lắm.

Trước cứu độ mình rồi sau mới độ người là bảo: Mình nếu chứ được độ, làm sao có thể độ được người?  Biển khổ mênh mông, chúng sinh chìm đắm, mình nếu không biết bơi thì làm sao cứu vớt họ được?  Vì vậy, muốn phổ độ tất cả chúng sinh, trước hết mình phải liễu thoát sinh tử, không còn ưu bi khổ não.

      Còn nói trước độ người mà mình chưa được độ, đây mới là Bồ tát phát tâm.  Bồ tát là ngay nơi chúng sinh mà học.  Bồ tát lìa chúng sinh ra cũng không gọi là Bồ tát.  Lúc cứu độ chúng sinh viên mãn, cũng là lúc Bồ tát đạo của mình viên mãn.

     Không luận là nói cách nào, đã phát tâm Đại thừa học đạo, nguyện độ khắp tất cả chúg sinh, thì việc trọng yếu hơn hết là hoằng pháp lợi sinh.  Đối với Bồ tát, hoằng pháp là bổn phận tất nhiên, lợi sinh là hoài bão xưa nay, không một chút chần chờ, do dự.  Đây chính là thái độ Bồ tát Đại thừa đối với cuộc đời.  Nói phát tâm Đại thừa, vậy thế nào là tâm Đại thừa?  Phật giáo chia ra Đại thừa và Tiểu thừa.  Đại thừa là chỉ Bồ tát, Tiểu thừa là chỉ Thanh văn, Duyên giác, mà trong Kinh Pháp Hoa dùng xe dê, xe nai và xe trâu trắng lớn để tỉ dụ.

     Thanh văn chỉ có thể tự độ, không thể độ người, như xe dê không thể chở đồ.  Duyên giác có thể độ mình và thân thuộc, như xe nai chở được một ít đồ.  Bồ tát tự độ lại có thể phổ độ chúng sinh, như xe trâu trắng lớn có thể chở mọi thứ hàng hóa.  Phát tâm Đại thừa nói ở đây, cũng chính là tâm Bồ tát độ khắp tất cả chúng sinh.

     Tâm Đại thừa bao hàm tâm Bồ đề, tâm đại bi và tâm phương tiện.  Tâm Bồ đề là hạt giống (nhân), tâm đại bi là gốc rễ (bản), tâm phương tiện là hoa trái (cứu cánh).  Một hành giả Bồ tát phát tâm, nhất định phải có đủ ba tâm nói trên, mới gọi là phát tâm Đại thừa.

     Phát tâm Bồ đề là phát tâm trên cầu Phật đạo.  Nói Phật đạo, là phải trải qua ba đại a tăng kỳ kiếp mới đạt được.  Không phát tâm Vô thượng Bồ đề, làm sao qua được sự khảo nghiệm lâu xa như vậy?  Kinh nói: Trong đời có một người phát tâm Bồ đề, là có thêm một hạt giống thành Phật.  Học Phật không phát tâm Bồ đề, như thửa ruộng không gieo giống, thì làm sao có ngày gặt hái?  Tâm Bồ đề chính là tâm thệ nguyện, có tâm thệ nguyện mới có thể thành tựu.  Phát tâm Bồ đề là phát bốn lời thệ nguyện rộng lớn (Tứ hoằng thệ nguyện):

Chúng sinh vô biên, thệ nguyện độ
Phiền não vô tận, thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng, thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng, thệ nguyệ thành.


Đây chính là tâm Bồ đề của Đại thừa.

     Phát tâm đại bi là phát tâm dưới độ chúng sinh.  Bồ tát dưới độ chúng sinh phải phát tâm đại từ vô duyên, đại bi đồng thể, xem khổ nạn của chúng sinh là khổ nạn của mình, xem niềm vui của chúng sinh là niềm vui của mình, độ chúng sinh mà không mong cầu báo đáp, thấy việc phục vụ chúng sinh là lẽ đương nhiên.  Nguyện thay chúng sinh, chịu vô lượng khổ mà Kinh này nói, chính là tâm đại bi của Đại thừa.

     Phát tâm phương tiện là phát tâm thực hành bốn pháp nhiếp hóa (Tứ nhiếp pháp).  Chúng sinh căn tính bất đồng, nên muốn giải cứu đau khổ cho chúng sinh, cần phải có nhiều phương tiện khéo léo.  Đức Phật từng quán sát căn tính chúng sinh mà tuỳ duyên thuyết pháp, nói ra bốn muôn tám ngàn pháp môn.  Đây là đức Phật có phương tiện độ sinh.

     Bồ tát thực hành bốn pháp nhiếp hóa (Tứ nhiếp pháp): Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, để khiến cho tất cả loài, đều được đại an lạc.  Đây chính là tâm phương tiện.

     Gồm đủ cả ba tâm: Tâm Bồ đề, tâm đại bi, tâm phương tiện, mới gọi là tâm Đại thừa.  Phát tâm Đại thừa cứu độ chúng sinh, cần phải làm được chuyện khó làm, nhẫn được việc khó nhẫn.  Nếu không, tâm Đại thừa không dễ gì phát khởi.

     Thuở quá khứ, Xá Lợi Phất khi còn ở nhân địa tu tập chuyển từ Tiểu thừa lên Đại thừa, sắp chứng vào bậc Thất địa Bồ tát bất thoái, thì có vị trời muốn đến thử tâm Đại thừa của ngài.  Vị trời ấy hóa là một người con hiếu, đang ngồi than khóc bên đường.  Xá Lợi Phất đi ngang trông thấy hỏi:

     - Xin hỏi sao lại ngồi ở đây mà khóc/  Có chuyện gì xảy ra vậy?

     - Không liên can gì đến ngài, xin để cho tôi yên.

 

     - Hãy nói cho tôi biết, tôi là đệ tử Phật thương yêu giúp đỡ mọi người.  Ông có điều gì khó khăn, xin nói ra tôi sẽ giúp.

      - Việc của tôi, tôi sợ ngài không giúp được!

      - Ông hãy nói cho tôi nghe xem!


     Xá Lợi Phất giục. Lúc đó vị ấy mới than thở:

     - Mẹ tôi chẳng may bị mắc chứng bệnh nan y.  Thầy thuốc bảo phải dùng mắt người sống hòa với thuốc uống mới hết.  Nhưng người này phải là bậc thánh tu hành!  Ngài nghĩ xem, mắt người sống đã là khó kiếm, lại còn phải là mắt của bậc thánh tu hành thì kiếm đâu ra?  Nghĩ đến mẹ tôi không cách nào cứu được, nhất định phải chết, nên tôi đau lòng than khóc.

     Nghe xong, Xá Lợi Phất mỉm cười, từ hòa nói với người ấy:


     - Được rồi, ông cứ an tâm, tôi sẽ giúp cho!


     - Thật ư?

     - Không sai chút nào!  Nói cho ông biết, tôi là người đã chứng quả, đã phát tâm Đại thừa đem những vật ngoài thân ra thí cho chúng sinh.  Nay có cơ hội đem vật trong thân ra cho chúng sinh, xin ông hãy móc mắt tôi!

 

      Nói xong Xá Lợi Phất điềm nhiên đứng cho người kia móc mắt.  Song người đó xua tay bảo:

     - Làm như vậy không được!  Tôi không dám móc mắt ngài, vì đây là việc làm phạm pháp.  Nếu ông hoan hỷ cứu mạng mẹ tôi, xin hãy tự móc mắt lấy!

     Xá Lợi Phất nghe nói có lý, liền tự tay móc mắt bên trái ra, ráng chịu đựng cơn đau nói với người ấy:

     - Ông hãy cầm lấy, cầu nguyện mẹ ông sớm bình phục.

      Nhưng người kia cũng lại xua tay nói:

     - Thầy thuốc bảo phải con mắt bên phải mới được!  Con mắt bên trái của ngài tôi đâu có cần?

     Xá Lợi Phất nghe xong, giật mình thất sắc, nghĩ bụng:

     - Thật là không may!  Con mắt bên trái đã móc ra rồi, còn lại con bên phải để nhìn, nay biết làm sao?


     Ông tự trách mình sao vô ý, không hỏi trước cần con bên nào!  Kế đó, Xá Lợi Phất lại nghĩ: Các bậc thánh xưa tu học Bồ tát đạo, phát tâm Đại thừa, trải qua nhiều đời nhiều kiếp xả bỏ đầu mắt tủy não bố thí cho chúng sinh.  Ta nay sao lại không làm được?  Cứu người phải tới nơi tới chốn.  Con mắt bên trái không dùng được, thì cho con mắt bên phải.

     Suy nghĩ như vậy xong, ngài bèn dũng mãnh móc con mắt phải ra cho người kia.  Nhưng người ấy cầm lấy con mắt đưa lên mũi ngửi, liền quăng xuống đất, lấy chân chà đạp lên, mắng rằng:

     - Ông là bậc thánh gì mà tròng mắt lại hôi tanh như vậy?  Đâu có thể đem làm thuốc để trị bệnh cho mẹ tôi!


     Xá Lợi Phật lúc ấy tuy mù, nhưng tai vẫn nghe biết người đó quăng mắt mình xuống đất rồi chà đạp lên, lại nghe lời mắng chửi nên nản lòng, suy nghĩ: Ông cần con mắt người sống là thứ không thể tìm được.  Tôi vì phát tâm Đại thừa, phổ độ chúng sinh nên móc mắt cho ông.  Thế mà mắt bên trái ông nói vô dụng, mắt bên phải ông chê tanh hôi, tôi có gì lầm lỗi với ông mà ông lại mắng tôi!

     Xá Lợi Phất lúc ấy không còn lòng nào nghĩ chuyện cứu độ chúng sinh, vô cùng chán nản, cảm thấy chúng sinh khó độ, nên không phát tâm Đại thừa nữa.

      Đây là một đoạn đường trải qua của Xá Lợi Phất khi ở nhân địa tu hành trong thuở quá khứ.

     Qua đó ta có thể thấy, tâm Đại thừa thật khó phát vô cùng.  Song chúng ta không nên sợ khó.  Do chúng ta có quan niệm phân biệt đối đãi giữa mình và chúng ính, nên không có tâm đại bi đồng thể.  Nếu chúng ta có thể lìa được bốn tướng: ngã, nhân, chúng ính, thọ giả như Kinh Kim Cương nói, thì tâm Đại thừa phổ độ chúng sinh sẽ phát khởi.

Muốn thực hiện hạnh lợi tha, phải có tinh thần dũng mãnh, xông pha vào chốn dầu sôi lửa bỏng, hoan hỷ nguyện thay chúng sinh chịu vô lượng khổ.  Được như vậy, mới là hành giả Bồ tát Đại thừa.  Đức Phật khi mới xuất gia đã phát bốn thệ nguyện:

1.  Nguyện cứu khổ ách cho chúng sinh.
2.  Nguyện trừ hoặc chướng cho chúng sinh.
3.  Nguyện đoạn tà kiến cho chúng sinh.
4.  Nguyện độ chúng sinh khỏi vòng sinh tử.


Bốn tâm nguyện này, cũng chính là tâm Đại thừa của Bồ tát.


Kinh Hoa Nghiêm nói:


Không cần an lạc cho riêng mình
Chỉ nguyện chúng sinh được hết khổ.

     Đây là tâm Đại thừa độ khắp tất cả chúng sinh của Bồ tát.  Như Bồ tát Văn Thù thì đại trí, Bồ tát Phổ Hiền thì đại hạnh, Bồ tát Quán Âm thì đại bi, Bồ tát Địa Tạng thì đại nguyện, đây đều là những nhân vật đại biểu sự phát tâm Đại thừa, đáng cho chúng ta noi theo.

     Tóm lại, chỉ mong riêng mình khỏi khổ, là hạng người bình thường (đương nhiên cũng có người vì căn tánh hạ liệt  không mong thoát khổ, thích ngồi trong lao ngục); mong người khác thoát khổ, là hạng người có tâm thiện lớn; mong thay thế chúng sinh chịu khổ, đây là hàng Bồ tát phát tâm Đại thừa.  Những bậc Bồ tát phát tâm Đại thừa như Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Địa Tạng đều có thể khiến các chúng sinh được đại an lạc nơi Niết bàn thanh tịnh giải thoát.

     Dịch thơ:


Điều thứ tám nhớ ghi giác biết
Lửa tử sinh muôn kiếp đốt thiêu
Chúng sinh khổ não đủ điều
Xưa nay không biết bao nhiêu đoạ đày.
Phát tâm lớn chịu thay đau khổ
Hạnh Đại thừa rộng độ quần sinh
Khiến cho tất cả hữu tình
Đồng lên bờ giác thanh bình an vui.
 

 

Biểu đồ 9: Tóm tắt nội dung điều giác ngộ thứ VIII

 


`````````````````````````````````````````

Kinh Kim Cương nói: Nếu Bồ tát có tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, thì đó không phải là Bồ tát.  Lại nói: Nếu Bồ tát đó (còn kiến chấp) còn thấy có tướng về pháp, tức còn chấp trước tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ giả.

bottom of page