top of page
KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
                                    Sa môn an Thế Cao dịch từ Phạn sang Hán
                                   Sakya Minh-Quang dịch từ Hán sang Việt

TÁN THÁN ĐỨC PHẬT

Pháp Vương vô thượng trong đời
Nhân thiên ba cõi không người sánh ngang             

Là Thầy dạy khắp thế gian
Là Cha lành của vô vàn chúng sanh
Quy y trong một niệm lành
Nghiệp vô lượng kiếp hóa thành sạch không
Tán dương Phật đức mênh mông
Dù trăm ngàn kiếp cũng không tận cùng (1 xá). 

                                     

QUÁN TƯỞNG ĐẢNH LỄ

Chúng sanh, chư Phật vốn đồng
Cả hai rỗng lặng, một dòng tánh không

Chí thành quán tưởng suốt thông
Đạo giao cảm ứng thật không nghĩ bàn
Mười phương Phật, một đạo tràng
Lại qua ảnh hiện như màn đế châu

Nay con quy mạng cúi đầu
Lễ trước chư Phật nhiệm mầu chứng minh (1 xá).                                                                                                  

ĐẢNH LỄ TAM BẢO

1. Kính lạy Phật Cha lành giác ngộ

Đã bao đời cứu khổ quần sanh

Như trăng giữa tháng tròn vành

Sáng soi mỗi bước tu hành con đi.  (1 lạy

2. Kính lạy Pháp thuyền từ phổ độ

Đưa người qua biển khổ mênh mông

Giúp con sống trọn tấm lòng

Thương yêu tỉnh thức giữa vòng tham sân. (1 lạy)

3. Kính lạy Tăng bậc Thầy cao cả

Thay Phật-đà giáo hóa quần sanh

Dạy con biết lối tu hành

Trao đèn Chánh Pháp, phước lành thế gian. (1 lạy)

 

TÁN LƯ HƯƠNG

Lư hương vừa bén chiên đàn
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Tâm thành tưởng Phật thiết tha
Tùy nơi cảm ứng hiện ra mây lành
Vừa sinh một niệm chí thành
Toàn thân Phật hiện phước lành vô biên.

Nam mô Hương vân cái Bồ-tát  (2 lần)
Nam mô Hương vân cái Bồ-tát Ma-ha-tát.

Nam-mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo. (3 lần)

PHÁT NGUYỆN THỌ TRÌ

Kính lạy đức Từ Phụ,
Bổn Sư Thích-ca Văn
Cùng bao đời Chư Tổ
Từ bi đã dạy răn. 
Nay con phát nguyện lớn
Thọ trì đọc tụng kinh
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nguyện kẻ thấy người nghe
Đều phát Bồ-đề tâm
Đời đời làm bạn lành
Đồng hành Bồ-tát đạo.
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. (3 lần)

 

KỆ KHAI KINH

Vô thượng thậm thâm: Pháp nhiệm mầu                             
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay thấy nghe, thọ trì Pháp
Nguyện ngộ thật nghĩa Phật ý sâu.     
Nam-mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ-tát (2 lần)
Nam-mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ-tát Ma-ha-tát.

PHẬT NÓI KINH TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ CỦA BẬC ĐẠI NHÂN

Người con Phật phát tâm học đạo

Luôn ngày đêm y giáo phụng hành

Đại nhân giác ngộ đành rành

Tám điều ghi nhớ chí thành niệm tu.

Điều thứ nhất tâm luôn giác biết

Cõi thế gian vốn thiệt vô thường

Đổi dời sinh tử tang thương

Cõi nước tuy lớn cũng dường mỏng manh.

Thân tứ đại sinh thành tử hoại  

Già bệnh đeo, khổ ải giả không

Hoà hợp năm ấm lửa vòng

Chỉ là ảo ảnh ngã không thể tìm

Thế mới biết thế gian hư huyễn

Diệt lại sinh biến chuyển vô thường

Chúng sinh điên đảo chấp nương

Si mê tạo nghiệp vào đường khổ đau.

Tâm là cội nguồn bao nghiệp ác

Thân nghe theo tạo tác tội khiên

Xuống lên sinh tử triền miên

Tội kia đầy dẫy như miền rừng hoang.

Người con Phật phải toan quán sát

Đạo lý này bao quát đường tu

Đó là thiền quán công phu

Dứt mê, chuyển nghiệp, thoát tù tử sinh.

Điều thứ hai phải nên giác ngộ 
Ham muốn nhiều lụy khổ càng sâu

Nhọc nhằn sinh tử bấy lâu

Đều do tham dục dẫn đầu gây nên

Tâm ít muốn giữ bền đạo nghiệp

Hạnh vô vi không tiếp nghiệp duyên

Tự nhiên sẽ hết não phiền  

An vui tự tại giữa miền nhân gian.

Điều thứ ba biết tâm giong ruổi

Luôn tìm cầu đeo đuổi chẳng nhàm

Không sao thỏa được lòng tham

Tội kia theo đó, càng làm càng sâu

Bậc Bồ-tát vô cầu biết đủ

Vui phận nghèo quy củ tu hành

Trau giồi tuệ nghiệp lợi sanh
Vung gươm trí tuệ, dứt mành vô minh.

Điều thứ tư phải nên ghi nhớ

Lười biếng làm lỡ dở đạo tâm

Quen theo thói tục lạc lầm

Đắm mê sa đọa trong hầm khổ đau

Nên thường phải giồi trau tinh tấn

Dũng mãnh tu phá những não phiền

Bốn ma hàng phục bình yên

Khỏi ngục ấm giới về miền chân như.

Điều thứ năm nằm lòng giác biết

Vì ngu si muôn kiếp tử sanh  

Bồ-tát phát nguyện tu hành

Nghe nhiều học rộng pháp lành Như Lai 
Để tăng trưởng gia tài trí tuệ

Và tựu thành xuất thế biện tài

Giảng kinh giáo hóa muôn loài  

Cho niềm vui lớn, cùng ngồi tòa sen.

Điều thứ sáu phải nên giác ngộ

Nghèo khổ nhiều tật đố trách phiền

Thường gây lắm việc oan khiên

Ngang nhiên kết buộc ác duyên với người

Bậc Bồ-tát độ đời bố thí

Bình đẳng tâm không nghĩ oán thân

Càng thương những kẻ ác nhân

Khoan dung hỉ xả những phần lỗi xưa.

Điều thứ bảy nhớ ghi giác biết

Ngũ dục là muôn kiếp họa tai 
Thân tuy ở tục qua ngày

Tâm không đắm nhiễm trần ai thói đời

Thường nhớ nghĩ ba y bình bát

Tiêu biểu cho Bồ-tát xuất gia

Chí mong sớm được xa nhà

Sống đời giải thoát an hòa thanh cao

Lập nguyện lớn cầu Vô Thượng Đạo

Hạnh kiên trì hoài bão độ sanh

Dù bao chướng ngại tu hành

Vẫn không lay chuyển hạnh lành từ bi.

Điều thứ tám nhớ ghi giác biết

Lửa tử sinh muôn kiếp đốt thiêu

Chúng sinh khổ não đủ điều

Xưa nay không biết bao nhiêu đọa đày

Phát tâm lớn chịu thay đau khổ 
Hạnh Đại Thừa rộng độ quần sinh

Khiến cho tất cả hữu tình

Đồng lên bờ giác thanh bình an vui.           

            ***

Phật Bồ-tát đã từng giác ngộ

Tám điều này, tự độ độ tha

Bồ Đề tâm phát sâu xa

Tinh tấn hành đạo chướng ma phục hàng.

Vung gươm tuệ dứt màn si ám

Rải mưa bi dập đám lửa phiền

Pháp thân nương lấy con thuyền

Niết bàn giải thoát bình yên lên bờ.

Thấy đau khổ lòng từ không nỡ

Thừa nguyện xưa thuyền trở bến mê 
Lại dùng tám việc đề huề

Chỉ cho sinh chúng quay về bờ kia

Biết giác ngộ xa lìa ngũ dục

Thấy tử sinh là ngục khổ đau

Tu tâm quét sạch trần lao

Theo đường Thánh đạo cùng nhau Niết-bàn

Đệ tử Phật tụng trì tám việc

Niệm niệm luôn tội diệt phước sanh

Bồ-đề Chánh Giác sớm thành

An vui thường trú tử sanh không còn.

Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.

      Kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật Tâm Yếu
Bồ-tát Quán Tự Tại
Khi thực hành Bát-nhã
Ba-la-mật thâm sâu
Quán chiếu thấy năm uẩn
Đương thể đều là không
Vượt qua vòng khổ ách.
Xá-lợi-phất lắng nghe
Sắc chẳng khác tánh không
Tánh không chẳng khác sắc
Sắc chính là tánh không
Tánh không chính là sắc
Thọ, tưởng, hành và thức
Bản chất cũng như vậy.
Lại nữa, Xá-lợi-phất
Các pháp thật tướng không
Không sinh cũng không diệt
Không sạch cũng không nhơ
Không thêm cũng không bớt;
Không có năm thủ uẩn:
Sắc, thọ, tưởng, hành, thức;
Không có sáu căn: mắt
Tai, mũi, lưỡi, thân, ý;
Không có sáu trần: sắc
Thanh, hương, vị, xúc, pháp;
Cũng không có sáu thức:
Nhãn thức đến ý thức;
Mười tám giới đều không.
Không có mười hai duyên:
Vô minh đến già chết;
Không có hết vô minh
Cho đến hết già chết
Lưu chuyển và hoàn diệt
Cả hai chiều đều không.
Không có bốn thánh đế:
Khổ, tập, diệt và đạo.
Không có trí có đắc
Vì không có sở đắc.
Bồ-tát y Bát-nhã
Ba-la-mật-đa này     
Tâm không còn chướng ngại
Do không có chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Lìa mộng tưởng đảo điên
Đến Niết-bàn cứu cánh.
Chư Phật trong ba đời
Đều y nơi Bát-nhã
Đắc Vô Thượng Bồ-đề.
Thế nên biết Bát-nhã
Là chân ngôn đại thần
Là chân ngôn đại minh
Là chân ngôn vô thượng
Không chân ngôn nào bằng
Có vi diệu công năng
Diệt trừ tất cả khổ
Chân thực không dối hư
Liền nói ra chú rằng:
Ga tê, ga tê, ba ra ga tê, ba ra sam ga tê, bô đi xóa ha (3 lần).
     (Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha)

ĐẢNH LỄ TRI ÂN ĐỨC PHẬT BỔN SƯ

1. Chủ lễ xướng: Nhất tâm đảnh lễ:

Từ vô lượng kiếp xưa
Luôn hành Bồ-tát đạo
Xả thân mình gieo giống từ bi
Công đức ấy không sao ví được.

Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

2. Chủ lễ xướng: Nhất tâm đảnh lễ:
           Cõi Ta-bà thị hiện
           Nơi dòng Thích thọ sanh
           Thánh Ma-da mộng ứng điềm lành
           Nơi vương thất chan hòa phước lạc.

Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

3. Chủ lễ xướng: Nhất tâm đảnh lễ:     
           Nơi vườn Lâm-tỳ-ni
           Thị hiện tướng đản sanh
           Hoa sen nâng bảy bước du hành
           Chỉ Phật tánh, xưng tôn ba cõi.


     Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

4. Chủ lễ xướng: Nhất tâm đảnh lễ:
           Dạo nơi bốn cửa thành
           Thấy lẽ khổ chúng sanh
           Vì thương đời một dạ tu hành
           Bỏ tất cả xuất gia tầm đạo.  


     Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

5. Chủ lễ xướng: Nhất tâm đảnh lễ:
           Sáu năm tu núi Tuyết
           Trải bao cảnh gió sương
           Tìm chân lý soi sáng đêm trường
           Trong tâm Ngài lai láng tình thương.

     Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

6. Chủ lễ xướng: Nhất tâm đảnh lễ:
           Tìm ra đường trung đạo
           Lìa vui khổ hai đường
           Dùng định tuệ hàng phục ma vương
           Sao mai mọc thành ngôi Vô Thượng.

      Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

7. Chủ lễ xướng: Nhất tâm đảnh lễ:

           Suốt bốn mươi lăm năm
           Không nề bao gian khổ
           Đem Chánh Pháp từ bi tế độ
           Trời người đều ngưỡng mộ tu hành.

     Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

8. Chủ Lễ Xướng: Nhất tâm đảnh lễ:

           Rừng Sa-la song thọ
           Độ chúng đã mãn duyên
           Thị hiện nhập vô dư Niết-bàn
           Lưu xá-lợi rộng độ nhân thiên.

     Đại chúng hòa: Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (1 lễ).

   (Tọa thiền chỉ quán về tính vô thường, khổ, không, vô ngã của thân, tâm khoảng 15-30 phút)

NIỆM PHẬT

 (Đứng hay quỳ xuống tụng nếu đi kinh hành niệm Phật, còn ngồi xuống tụng khi ngồi niệm Phật)

Phật A-di-đà thân kim sắc

Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm

Năm Tu-di uyển chuyển: bạch hào

Bốn biển lớn trong ngần: mắt biếc

Trong hào quang hóa vô số Phật

Vô số Bồ-tát hiện ở trong

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh

Chín phẩm sen vàng lên giải thoát

Quy mạng lễ A-di-đà Phật

Ở phương Tây thế giới an lành

Con nay xin phát nguyện vãng sanh

Cúi xin Đức Từ Bi tiếp độ.

Nam-mô Tây phương Cực Lạc thế giới, Ðại Từ, Ðại Bi A-di-đà Phật.

Nam-mô A-di-đà Phật

(Niệm Phật nhiều ít tùy thời; có thể đảnh lễ niệm Phật, thiền hành niệm Phật, hay tọa thiền niệm  Phật đều được)

Nam-mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát (3 lần).

Nam-mô Đại Lực Đại Thế Chí Bồ-tát (3 lần).

Nam-mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát (3 lần).

Nam-mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát (3 lần).

SÁM QUY MẠNG[i]

Quy mạng Điều Ngự trong mười phương           

Pháp mầu thanh tịnh khéo tuyên dương

Thánh Tăng bốn quả, ba thừa Pháp [ii]

Xin dũ lòng từ, nguyện xót thương.

Đệ tử chúng con,

Tự xa chân tánh,

Uổng đọa dòng mê

Theo sinh tử mãi thăng trầm

Tham sắc thanh luôn ô nhiễm.

Mười triền[iii] mười sử[iv]

Kết thành hữu lậu nghiệp nhân;

Sáu căn[v] sáu trần[vi]

Lầm tạo biết bao tội lỗi.

Đắm chìm biển khổ

Lạc bước đường tà

Chấp ngã, chấp nhân

Sai lầm điên đảo.

Nhiều đời nghiệp chướng

Tất cả tội khiên

Nguyện Tam Bảo đức từ bi

Chứng lòng thành con sám hối. (C)

Kính nguyện:

Thế Tôn cứu độ                       

Bạn tốt dắt dìu

Ra khỏi phiền não sông mê

Bước lên Bồ-đề bến giác.

Hiện đời bình an phước lạc

Sở nguyện tựu thành;

Kiếp sau mầm giác đơm hoa

Bồ-đề kết quả.

Sinh nơi Phật Pháp

Sớm gặp minh sư

Chánh tín xuất gia

Tuổi thơ vào Đạo.

Sáu căn thông lợi

Ba nghiệp[vii] sạch trong

Chẳng nhiễm duyên đời

Thường tu phạm hạnh.

Nghiêm trì giới cấm

Chẳng vướng nghiệp trần

Vững chãi oai nghi

Không hại sinh vật.

Không gặp tám nạn[viii]

Chẳng thiếu bốn duyên[ix]

Bát-nhã trí được hiện tiền

Bồ-đề tâm luôn bất thoái.

Tu tập Chánh Pháp

Liễu ngộ Đại Thừa

Hành môn sáu độ[x] lợi sinh

Vượt biển ba kỳ[xi] thành Phật.

Dựng cờ Chánh Pháp nơi nơi

Phá lưới nghi ngờ lớp lớp

Hàng phục chúng ma

Nối dòng Tam Bảo.

Phụng sự mười phương chư Phật

Chẳng nệ nhọc nhằn,

Tu tập tất cả pháp môn

Thảy đều thông đạt.

Rộng tu phước tuệ

Lợi lạc quần sinh,

Chứng được sáu loại thần thông

Chỉ trong một đời thành Phật.

Sau đó,

Không bỏ pháp giới

Vào chốn trần lao

Từ bi đồng với Quán Âm

Hạnh nguyện rộng như Phổ Hiền.

Phương đây phương khác

Tùy thuận muôn loài

Ứng hiện sắc thân

Tùy cơ thuyết Pháp.

Trong đường địa ngục

Ngạ quỷ khổ đau

Hoặc phóng ánh quang minh

Hoặc hiện các thần biến

Nếu ai thấy thân con

Cho đến nghe được tên

Đều phát Bồ-đề tâm

Thoát hẵn luân hồi khổ.

Nơi có lò lửa sông băng
Thành rừng chiên-đàn.

Kẻ nuốt nước đồng hoàn sắt

Hóa sinh Tịnh Độ.

Mang lông đội sừng

Thiếu nợ hàm oan

Hết nỗi tân toan

Thảy đều lợi lạc.

Trong đời dịch bệnh

Hiện thành cây thuốc

Cứu bệnh trầm kha,

Lúc đói mất mùa

Hóa ra lúa gạo

Giúp người nghèo đói;

Chỉ cần lợi ích

Thệ chẳng từ nan.

Lại nguyện:

Oán thân nhiều kiếp

Quyến thuộc hiện tiền

Hết đắm chìm trong bốn loại

Dứt ân ái buộc nhiều đời

Cùng với chúng sanh

Đồng thành Phật đạo.

Hư không có hạn

Nguyện con không cùng

[Hư không có hạn

Nguyện con không cùng]

Hữu tình vô tình

Đồng nên Phật trí.

                                 

HỒI HƯỚNG

Trì kinh quán niệm phước vô biên
Hồi hướng chúng sinh khắp mọi miền

Nguyện ai còn đắm trong biển khổ

Sớm về nước Phật được an nhiên. 

Nguyện tiêu ba chướng hết phiền não
Nguyện được Bát-nhã trí rộng cao
Nguyện thực hành theo Bồ-tát đạo
Đời đời tinh tiến chẳng lãng xao.

Nguyện sinh về cõi Tây phương
Đài sen chín phẩm dựa nương thức thần

Hoa nở thấy Phật pháp thân
Chứng ngôi bất thoái, cõi trần độ sinh.

Nguyện đem công đức tu này
Hướng về tất cả, chung xây phước lành 

Con cùng pháp giới chúng sanh
Đồng nên Phật đạo, đồng thành Như Lai.

 

         TỰ QUY Y

Con tự quy y Phật
Nguyện tất cả chúng sanh
Tin hiểu Đạo Vô Thượng
Đồng phát Bồ-đề tâm (1 lễ).

Con tự quy y Pháp
Nguyện tất cả chúng sanh
Thâm nhập nghĩa kinh tạng
Trí tuệ sâu như biển (1 lễ).

Con tự quy y Tăng
Nguyện tất cả chúng sanh
Hòa hợp cùng đại chúng
Sống vô ngại, an lành (1 lễ).

TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN

Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

 

----------------------------------------------------------------------------------------------

[i] Đây vốn là bài văn phát nguyện của thiền sư Liễu Nhiên ở núi Di (怡山然禪師) được biên tập trong sách Truy Môn Cảnh Huấn, Đại Chánh Tạng, quyển 48, trang 1072. Bài phát nguyện này ảnh hưởng sâu rộng trong truyền thống Phật giáo Đại Thừa Đông Á, và được đưa vào công khóa để tụng niệm sáng chiều trong chốn thiền môn. Đây không những nhờ vào ý nghĩa sâu sắc của bài văn mà còn nhờ vào giọng văn lúc tha thiết, khi hùng tráng … qua nhịp câu ngắn gọn, dứt khoát đi thẳng vào trái tim của người tụng đọc. Vì vậy, khi dịch sang Việt ngữ, dịch giả cố gắng giữ nguyên nhịp câu và đối ngẫu như nguyên tác chữ Hán, nhằm bảo tồn tối đa nhạc điệu và hình tượng đối xứng trong tác phẩm.

[ii] Ba thừa Pháp: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa.

[iii] Mười triền: Mười loại tâm lý trói buộc chúng ta trong vòng sinh tử. 1. vô tàm (không biết hổ với mình) 2. vô quý (không biết thẹn với người) 3. tật (ghen ghét) 4. xan (keo kiệt) 5. hối (hối tiếc) 6. thùy miên (tham ngủ nghỉ) 7. điệu cử ( tâm loạn động) 8. hôn trầm (tâm hôn ám dã dượi) 9. phẫn (giận hờn) 10. phú (che dấu lầm lỗi của mình).

[iv] Mười sử: mười loại tâm lý sai khiến mình tạo nghiệp thọ khổ. 1. tham, 2. sân, 3. si, 4. mạn, 5. nghi, 6. thân kiến, 7. biên kiến, 8. kiến thủ, 9. giới cấm thủ, 10. tà kiến.

[v] Sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

[vi] Sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

[vii] Ba nghiệp: Thân, miệng, ý.

[viii] Tám nạn: Tám chướng nạn khiến chúng sinh khó tu học Phật pháp. 1. Địa ngục, 2. Ngạ quỷ, 3. Súc sinh, 4. cõi trời Trường Thọ, 5. Biên địa, nơi không có Phật pháp, 6. Thế trí biện thông, giỏi biện luận thế gian nhưng không tin pháp xuất thế, 7. Đui điếc câm ngọng, 8. Sinh ra trước Phật hay sau Phật.

[ix] Bốn duyên: Bốn nhân duyên phát tâm Bồ Đề. Theo Kinh Bồ-tát Địa Trì đó là: 1. Thấy đạo lực thần thông không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ tát nên phát tâm Bồ-đề. 2. Nghe nói đến công hạnh của Bồ tát nên phát tâm Bồ Đề. 3. Thấy đời mạt pháp, chánh pháp suy vi nên phát tâm Bồ Đề. 4. Vì lòng thương xót chúng sinh khổ nên phát tâm Bồ-đề.

[x] Sáu độ tức sáu Ba-la-mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ.

[xi] Ba kỳ: Ba A-tăng-kỳ kiếp. A-tăng-kỳ có nghĩa vô số. Đây là ước lượng số kiếp lâu xa hành Bồ tát đạo để thành tựu quả Phật viên mãn.

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

s513037892264040667_p18_i1_w233.jpeg
bottom of page