Bài Thơ Thức Tỉnh Đứa Con Bất Hiếu
Sinh con lòng rất hân hoan
Vì con cha phải lo toan kiếm tiền
Lớn lên lấy được vợ hiền
Cha lo tất cả chẳng phiền tốn hao.
Cửa nhà, tài sản cha giao
Thương con đến thế, con nào biết ân
Hình người lòng dạ bất nhân
Cha mình xử tệ hơn là người dưng
Ngựa già vô dụng ai cần
Nên phải chịu đói mất phần lúa rơm.
Có con mà phải xin cơm
Đầu đường xó chợ sớm hôm nhọc nhằn.
Thương yêu chiếc gậy thăng bằng
Đở nâng, che chở hơn thằng con hư
Vì ta bò dữ ngăn trừ
Vì ta đường hiểm từ từ chống ra
Lại khi chó dữ xông ra
Gậy xua đuổi giúp thân già được yên
Quanh co ngõ tối nhiễu phiền
Gậy dò ra lối, bình yên về nhà
Hố sâu, gai góc, đường xa
Toàn nhờ chiếc gậy thân già được an.
(Kinh Tạp A Hàm, số 96. Đại Tạng Kinh, quyển 2, trang 26).
Duyên Khởi:
Một buổi sáng nọ, đức Phật vào thành Xá vệ khất thực. Ngài bỗng trông thấy một ông cụ già nua lụm cụm mà phải ôm bát đến từng nhà ăn xin. Đức Phật mới hỏi vì sao ông phải đi xin ăn như thế. Ông mới thưa với đức Phật rằng ông cũng từng có nhà cửa, tài sản như mọi người. Nhưng ông ta có một đứa con trai, vì thương con ông chẳng những nuôi con khôn lớn đầy đủ, tìm vợ tốt cho nó, mà còn giao tất cả tài sản cho con. Không ngờ, đứa con khi đã làm chủ tất cả tài sản, chỉ biết đến vợ con mình, mà lại bỏ ông thiếu thốn đói khát. Cho nên, buộc lòng ông phải đi xin ăn. Nghe xong, đức Phật dạy ông một bài kệ, bảo học thuộc lòng rồi trở về nhà, đọc cho con mình nghe trước sự chứng kiến của bạn bè, thân tộc. Ông y lời học thuộc và đọc cho con nghe bài thơ này trước sự chứng kiến của mọi người. Nghe xong, người con trai vô cùng xấu hổ, hối hận. Sau đó, anh rước cha về nhà nuôi dưỡng và trở thành một người con hiếu. Nhân đó, ông cụ vì tri ân đã quy y với đức Phật.
「生子心歡喜 為子聚財物
亦為娉其妻 而自捨出
邊鄙田舍兒 違負於[10]其父
人形羅剎心 棄捨於尊老
老馬無復用 則奪其[11][麩-夫+黃]麥
兒少而父老 家家行乞食
曲[12]杖為最勝 非子[13]為恩愛
為我防惡牛 [14]免險地得安
能却兇暴狗 [15]扶我闇處行
避深坑空井 草木棘刺林
憑杖威力故 峙立不墮落」(《雜阿含經》T02, no. 99, p. 26, b28-c10)