Ân Sư Trưởng
* Lời giới thiệu
Trong sách Lô Sơn Liên Tông Bảo Giám, Pháp sư Phổ Độ (釋普度1255-1330) đời Nguyên đã nói về ân sư trưởng rất sâu sắc. Nhân dạy Văn Khuyên Phát Tâm Bồ-đề cho Tăng Ni sinh lớp Luật Học tại Luật Học Viện Huệ Nghiêm, đến phần: “Vì nhớ ơn sư trưởng mà phát tâm Bồ-đề”, bút giả đọc lại ân sư trưởng trong Liên Tông Bảo Giám, thấy có phần tâm đắc, nên phát tâm phiên dịch, giải thích và bình luận để chia sẻ cùng người hữu duyên. Mong rằng truyền thống “tôn sư trọng đạo”, tinh thần “cầu Pháp quên mình” một lần nữa sống dậy trong đời sống văn hóa và tâm linh của người con Phật.
Sakya Minh-Quang ghi
Ngài 19 tháng 04, 2025 tại Luật Học Viện Huệ Nghiêm
* Ân Sư Trưởng
Cổ đức nói: “Sinh ta là cha mẹ, nên ta là Thầy bạn.” Nên biết rằng: Khi lạc lối Thầy là đạo sư sáng suốt; Trong nhà tối, Thầy là đèn tuệ rạng soi; Nơi biển khổ, Thầy là thuyền từ cứu vớt; Cõi trời người, Thầy là mắt sáng cho đời. Vì vậy, ơn Thầy vượt qua cha mẹ, đức Thầy nặng hơn đất trời. Đây là lý do đệ tử phụng sự Thầy không dám lười nhác hay khinh mạn.
Chẳng thấy chăng? Có người xả bỏ toàn thân để cầu nửa bài kệ; chặt một cánh tay để hỏi lý chân thừa; thân làm toà ngồi cho Thầy vì học Đạo; lưng đeo đá giã gạo vì nối dòng Tổ; bán tim gan để học bát-nhã; nhảy vào lửa để chứng Bồ-đề. So với người xưa, chúng ta chẳng phải là may mắn lắm sao? Vậy đâu thể không cố gắng hết lòng, phụng sự Thầy để học Đạo?

Nên biết, xuất gia theo Thầy cần phải tìm bậc có chánh kiến; Du phương tham học đừng nương kẻ thuộc tà tông. Phải rõ nghiệp nhân của tội phước, suy xét biện biệt sự lợi hại của chánh tà. Chánh thì thành Phật; tà thì thành ma. Ban đầu không gặp bậc tác gia (minh sư), đến già thành đống xương khô cũ.
Cho nên, Như Lai biết Thầy mình không đúng liền bỏ đi; Khổng tử chọn người lành để nương theo. Xét ra bậc Thánh xưa đều vậy, người nay há lại khác sao?
Huống chi trong đời mạt Pháp, tà sư đầy dẫy khắp nơi! Người muốn tu hành, xin đừng gần những kẻ ấy! Chỉ cần giữ gìn chánh niệm, cuối cùng sẽ gặp minh sư. Muốn liễu ngộ được đại sự nhân duyên, cẩn thận đừng cho là việc dễ dàng!
Cho nên, đệ tử phụng sự Thầy đồng với phụng sự Phật. Phải nên cúng dường bốn việc: ăn, mặc, thuốc thang, chỗ ở, đâu dám chối từ cho là lao nhọc! Những bậc minh sư như vậy, cho dù cúng dường vạn lượng vàng ròng cũng có thể tiêu được. (Dịch văn)
* Lời bình:
Mở đầu tác giả nói: “Khi lạc lối, Thầy là đạo sư sáng suốt; Trong nhà tối, Thầy là đèn tuệ rạng soi; Nơi biển khổ, Thầy là thuyền từ cứu vớt; Cõi trời người, Thầy là mắt sáng cho đời.” Lời nói này thật trực tiếp, sâu sắc và cảm động biết bao! Chỉ cần đệ tử thường xuyên chiêm nghiệm, ghi nhớ những lời này, thì tự nhiên sẽ biết “phụng sự Thầy không dám lười nhác hay khinh mạn.”
Đoạn kế tiếp, tác giả dẫn sáu điển tích là gương xưa của Phật, Bồ-tát và chư Tổ để chứng minh tinh thần “tôn sư trọng đạo”, “vì Pháp quên mình.” Điển tích đầu nói: “Có người xả bỏ toàn thân để cầu nửa bài kệ.” Đây là dẫn tích truyện tiền thân hành Bồ-tát đạo của đức Phật Thích-ca trong Kinh Đại Bát Niết-bàn. Kinh nói: Tiền thân Phật là Bồ-tát tu khổ hạnh trong núi Tuyết sơn. Thời đó không có Phật có Pháp. Trời Đế Thích thấy Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, tinh tấn dũng mãnh, nên muốn thử lòng. Vì vậy, Đế Thích liền hiện thành quỷ La-sát đói, đọc lên hai câu kệ:
Chư hành vô thường
Thị sinh diệt pháp.
Nghĩa:
Các hành vô thường
là pháp sinh diệt.
Hành là các pháp hữu vi, do duyên khởi (conditioned things) nên vô thường. Đây chính là pháp sinh diệt, hay sinh tử, sự thật khổ đế của cuộc đời.
Bồ-tát nghe xong nghĩ rằng đó là vị Bồ-tát nào đó thị hiện nói Pháp. Vì trong đời không có Phật Pháp, muốn truyền giáo Pháp lại cho người khác biết tu hành, mà Bồ-tát cầu quỷ La-sát nói hai câu kệ sau, để có được bài kệ hoàn chỉnh bốn câu (tứ cú kệ). Để đổi lấy nửa bài sau, Bồ-tát phải xả thân mình làm thức ăn cho quỷ La-sát! Hai câu kệ sau là:
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc.
Nghĩa:
Sinh diệt diệt rồi
Tịch diệt là an vui.
Sinh diệt hay sinh tử đã chấm dứt rồi (diệt đế), thì niết-bàn tịch diệt là cứu cánh an vui.
Tiếp theo là điển tích thứ hai: “Chặt một cánh tay để hỏi lý chân thừa.” Đây là câu chuyện vấn đạo giữa nhị tổ Huệ Khả (Thần Quang) và sơ Tổ Bồ-đề-đạt-ma được ghi lại trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục. Sách ghi: Ngài Thần Quang đến núi Thiếu Thất tham vấn với Tổ Bồ-đề-đạt-ma. Tổ ngồi quay lưng vào vách đá, suốt đêm không ngó đến. Thần Quang quỳ suốt đêm ngoài trời, dù tuyết ngập đến eo. Đến sáng, Tổ thấy vậy mới hỏi: Ông đến đây làm gì? Thần Quang đáp: Con đến đây cầu Pháp. Tổ bảo: Pháp của chư Phật phải đổi lấy bằng đầu mắt tủy não… nhiều kiếp trong quá khứ, ông đâu thể đem tâm dễ duôi như vậy để cầu được? Thần Quang nghe xong liền chặt một cánh tay mình dâng lên để tỏ thành ý. Thấy vậy Tổ mới hứa khả. Cùng một ý này, trong “Kệ Tụng Tri Ân Lịch Đại Tổ Sư” bút giả viết:
Tuyết lạnh chặt tay cầu Pháp
Đạo tâm thật chẳng nghĩ bàn.
Kế đó là điển tích thứ ba: “Thân làm toà ngồi cho Thầy vì cầu học.” Đây là câu chuyện tiền thân đức Phật được ghi trong Kinh Pháp Hoa, “Phẩm Đề-bà-đạt-đa” thứ 22. Trong kinh, đức Phật kể rằng: Trong đời quá khứ Ngài từng là vị quốc vương, vì phát tâm Vô thượng Bồ-đề nên đã bỏ ngôi, làm người xuất gia cầu đạo. Sau đó, Bồ-tát vì cầu học Kinh Pháp Hoa nên đã bái một vị tiên nhân làm Thầy, gần gũi phụng sự. Tiền thân Phật đã đem thân làm tòa ngồi cho Thầy là vị tiên nhân này suốt một ngàn năm để học được bộ kinh này. Vị tiên nhân đó chính là tiền thân của Đề-bà-đạt-đa.
Điển tích thứ tư: “Lưng đeo đá giã gạo vì nối dòng Tổ.” Đây là câu chuyện của Lục tổ Huệ Năng được ghi trong Kinh Pháp Bảo Đàn. Huệ Năng tìm dến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ở Đông Sơn. Vì cầu được ấn chứng đã kiên nhẫn ở lại làm công quả giã gạo nơi nhà trù. Tổ vì ốm yếu, không đủ cân nặng, nên phải đeo thêm đá nơi eo, lấy sức kéo chày lên để giã vào cối đá. Cuối cùng, Huệ Năng được Ngũ Tổ ấn tâm, truyền y bát, kế thừa ngôi Tổ thứ sáu.
Điển tích thứ năm: “Bán tim gan để học bát-nhã.” Đây là câu chuyện của Thường Đề Bồ-tát (Tát-đà-ba-luân) được ghi trong Kinh Đạo Hành Bát-nhã Ba-la-mật. Thường Đề Bồ-tát vì cầu học Bát-nhã Ba-la-mật với Bồ-tát Đàm Vô Kiệt, nên khởi lòng tri ân báo ân, muốn cúng dường Thầy. Nhưng vì quá nghèo, không có gì để cúng, nên Ngài đã bán thân, máu thịt, tim gan của mình để cúng dường Thầy. Ngài nói: “Tôi muốn cúng dường Thầy, nên dùng cách này, lấy máu, lấy thịt, lấy tủy để bán, rồi đem cúng dường cho Thầy.”
Điển tích thứ sáu: “Nhảy vào lửa để chứng Bồ-đề.” Đây là câu chuyện Thiện Tài Đồng tử tham học với năm mươi ba vị Thiện tri thức trong Kinh Hoa Nghiêm, “Phẩm Nhập Pháp Giới.” Một trong năm mươi ba vị Thiện tri thức đó là Bà-la-môn Thắng Nhiệt. Thiện Tài hỏi: Con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề rồi, nhưng không biết phải học Bồ-tát hạnh như thế nào? Phải tu Bồ-tát đạo ra sao? Xin Ngài từ bi dạy cho.
Bà-la-môn Thắng Nhiệt nghe xong bảo: “Này thiện nam tử! Ông nay nếu có thể leo lên núi đao này, gieo mình vào ngọn lửa lớn, thì các hạnh Bồ-tát của ông sẽ được thanh tịnh.”
Ban đầu Thiện Tài do dự vì lý do “thân người khó được”, nhưng sau được sự khuyến khích của chư thiên và bát bộ, nên đã phát khởi đại tín tâm, làm theo lời Thiện tri thức dạy. Kết quả: “Thiện Tài liền eo lên núi đao, tự nhảy vào lửa, chưa đến giữa chừng liền được tam muội Thiện Trụ của Bồ-tát, vừa tiếp xúc lửa lại được tam muội Thần Thông Tịch Tịnh Lạc của Bồ-tát. Thiện Tài liền bạch: “Kỳ diệu thay! Thưa Thánh giả. Thân con chạm đến núi đao và lửa lớn này đều an ổn, vui sướng.”
Qua sáu câu chuyện “tôn sư trọng Đạo”, “cầu Pháp quên thân” trên, chúng ta thấy mình may mắn biết bao khi gặp được Phật Pháp, có Thầy sáng bạn lành đồng học, đồng tu. Cho nên tác giả kết luận: “So với người xưa, chúng ta chẳng phải là may mắn lắm sao? Vậy đâu thể không cố gắng hết lòng, phụng sự Thầy để học Đạo?
Đoạn văn tiếp theo, tác giả cảnh giác người học đạo: “Trong đời mạt Pháp, tà sư đầy dẫy khắp nơi! Người muốn tu hành, xin đừng gần những kẻ ấy!” Đây chính là hiện trạng của Phật giáo ngày nay. Rất nhiều người tự xưng là “minh sư”, “vô thượng sư”, “bậc thầy giác ngộ” v.v…. Đây là những người tự đề cao bản ngã, nhằm thu hút tín đồ, cầu danh cầu lợi. Cũng có người thân ăn cơm mặc áo Đại Thừa, nhưng không hiểu, không tu Đại Thừa, trở lại phỉ báng, cho là không phải Phật nói, khiến nhiều người hoang mang, đánh mất lòng tin. Đây là tội “phá kiến”, còn nặng hơn tội “phá giới”. Sám Ngã Niệm nói:
Khinh Tăng, phỉ báng Đại Thừa
Dối Thầy, mạn Phật, lọc lừa, vong ân!
Vậy làm thế nào để có thể gặp được bậc minh sư? Tác giả bảo: “Chỉ cần giữ gìn chánh niệm, cuối cùng sẽ gặp minh sư. Muốn liễu ngộ được đại sự nhân duyên, cẩn thận đừng cho là việc dễ dàng!” Ý Ngài nói: Chỉ cần chúng ta giữ vững chánh niệm, tức nhớ đến chánh kiến thì cuối cùng sẽ gặp được minh sư. Như vậy mới hay, tu hành chánh kiến quan trọng biết dường nào! Chánh kiến có ba: Một, chánh kiến thế gian, tức tin sâu nhân quả, nghiệp báo trong ba đời, giúp chúng ta có tín tâm Tam Bảo, bỏ ác làm lành. Hai, chánh kiến xuất thế tức tin hiểu sâu chắc tứ Thánh đế, giúp chúng ta khởi tâm xuất ly, cầu giải thoát khỏi sinh tử. Ba, chánh kiến trung đạo bất nhị, tức thấy thế gian và xuất thế gian không hai, sinh tử và niết-bàn tự tính không, nên phát tâm Bồ-đề, không trụ niết-bàn, không đắm sinh tử, đem tinh thần xuất thế để làm việc nhập thế, lợi lạc chúng sinh.
Có được chánh kiến như vậy, chúng ta có thể biện biệt được thiện tri thức và ác tri thức. Đó là điều mà Pháp sư Phổ Độ bảo: “Nên biết, xuất gia theo Thầy cần phải tìm bậc có chánh kiến; Du phương tham học đừng nương kẻ thuộc tà tông. Phải rõ nghiệp nhân của tội phước, suy xét biện biệt sự lợi hại của chánh tà. Chánh thì thành Phật; tà thì thành ma. Ban đầu không gặp bậc tác gia (minh sư), đến già thành đống xương khô cũ!”
Cuối cùng, tác giả kết luận: “Cho nên, đệ tử phụng sự Thầy đồng với phụng sự Phật. Phải nên cúng dường bốn việc: ăn, mặc, thuốc thang, chỗ ở, đâu dám chối từ cho là lao nhọc!
Sakya Minh-Quang
