top of page

Trang Nhà  <  Bài Viết  <  Ý Nghĩa Hoa Đăng Phật Giáo

Ý Nghĩa Hoa Đăng Phật Giáo

    Hoa Đăng, nói đủ hơn là Liên Hoa Đăng, gồm hoa và đèn, hay ngọn đèn nằm trong lồng đèn hình đóa hoa sen. Thông thường, trong Phật giáo, thắp đèn Hoa Đăng là nghi thức dâng hoa và đèn lên cúng dường chư Phật và Bồ-tát. Mục đích nhằm hồi hướng công đức, cầu nguyện bình an cho người còn hay siêu độ cho người mất. Đây là một trong những truyền thống lâu đời của Phật giáo Đại Thừa Đông Á, kết hợp giữa giáo lý Phật giáo như thắp đèn Dược Sư và văn hóa tín ngưỡng dân gian như lễ hội hoa đăng trong tiết Nguyên Tiêu, đêm Rằm Tháng Giêng.

    Về công đức cúng dường hoa đăng, theo Kinh Nhân Quả dạy, ai cúng hoa cho chư Phật, Bồ-tát sẽ được phước báo thân tướng xinh đẹp, còn ai cúng dường đèn sáng sẽ được thông minh trí tuệ. Cho nên, cúng dường Hoa Đăng gieo trồng phước lành, trang nghiêm thân tâm của người Phật tử. Tuy nhiên, Pháp hội cúng dường hoa đăng trong Phật giáo còn có nhiều ý nghĩa sâu xa hơn nữa.

    Trước hết, ngọn đèn trong đóa hoa tượng trưng cho sinh mệnh vô thường của chúng ta. Ngọn đèn thắp sáng có thời gian dài ngắn khác nhau, nhưng rốt cuộc cũng phải kết thúc, giống như sinh mệnh của chúng sinh có thọ yểu bất đồng, nhưng cuối cùng rồi ai cũng phải chết. Đóa hoa sen bao bọc bên ngoài ngọn đèn tượng trưng cho sự gia hộ của chư Phật và Bồ-tát. Cho nên, thắp đèn hoa đăng mang ý nghĩa cầu an, hay kiết tường với lòng thành kính cầu nguyện trên chư Phật gia hộ, bảo bọc ngọn đèn sinh mệnh mình được an lành trước những cơn gió nghiệp của cuộc đời! Kinh Phổ Môn Thi Kệ nói:

Scan0021.png

Quán Âm bậc thánh đại bi
Là nơi nương tựa mỗi khi tai nàn
Khổ đau chết chóc vô vàn
Biết nương Bồ-tát bình an một đời!
(Sakya Minh-Quang dịch)

Sám Nguyện Dược Sư cũng nói:


Nam-mô Dược Sư Lưu Ly Quang
Nguyện lớn độ người khắp thế gian
Gia hộ cho con lìa bệnh khổ
Tùy cơ cảm ứng, chẳng nghĩ bàn!
(Sakya Minh-Quang)

    Lại nữa, ngọn đèn Hoa Đăng còn tượng trưng cho ngọn đèn trí tuệ, soi đường dẫn lối cho người con Phật trong đêm trường vô minh! Kinh Di Giáo nói: “Trí tuệ là đèn sáng phá tan tối vô minh.” Lại bảo: “Ai thường quán sát mình không đánh mất trí tuệ. Người đó sẽ giải thoát trong giáo pháp của ta.”

    Thực ra, nếu quán chiếu cuộc đời, chúng ta thấy có ba loại lửa sinh mệnh khác nhau.

    Một, có ngọn lửa sinh mệnh tự sinh tự diệt, nằm một mình trong góc tối cuộc đời, không lợi ích cho ai. Đây là chỉ những người sống không hại ai mà cũng chẳng làm lợi ích cho ai, theo kiểu:

Ông này bố mẹ sinh ra
Lọt lòng ông khóc tu oa
Lần lần ông ta lớn tướng 
Giờ thì ông hóa ra ma! Chấm hết!

    Hai, có ngọn lửa sinh mệnh đốt cháy những giá trị cuộc sống, phá hoại những gì tốt đẹp của đời. Ví dụ, những người sống phạm tội, phạm pháp, gây đau khổ cho mình và người mà lương tâm không chút cắn rứt!

Lương tâm răng rụng hết rồi
Còn đâu cắn rứt nữa người bạn ơi!

    Ba, có ngọn lửa sinh mệnh vô giá, làm ngọn đèn soi sáng cho mình, sưởi ấm cho người, và truyền lửa cho thế hệ tương lai, khiến ánh sáng giác ngộ tiếp diễn vô cùng! Đây chính là lẽ sống của người con Phật, tượng trưng qua ngọn đèn hoa đăng.

    Nói về cúng dường đèn, thuở xưa có một bà lão tên Nan-đà nghèo cùng đến đổi phải đi ăn xin sống qua ngày. Một hôm gặp đức Phật thuyết Pháp vào ban đêm, bà đã nhịn đói để có tiền mua chút dầu thắp đèn cúng dường đức Phật. Khi cúng dường, cô phát nguyện: “Nguyện ánh sáng này chiếu khắp mười phương, khiến tất cả hữu tình đều được ra khỏi biển khổ sinh tử, hưởng được niềm vui lớn vô thượng!” Khi tàn buổi giảng, ngài A-nan ra thổi tắt đèn để chuẩn bị đi nghỉ. Tất cả ngọn đèn đều bị thổi tắt, nhưng riêng ngọn đèn của bà lão ăn mày là không sao thổi tắt. Tôn giả Mục-kiền-liên liền vận dụng tất cả sức thần thông của mình để thổi, nhưng cũng không thể thổi tắt. Thấy vậy, đức Phật mới cản Mục-kiền-liên, bảo: “Này Mục-kiền-liên. Người cúng dường ngọn đèn này đã phát đại nguyện cứu độ chúng sinh. Cho dù nước bốn biển cũng không cách nào dập tắt. (…) Tương lai thí chủ này sẽ thành Phật hiệu Đăng Quang Như Lai.”

    Còn về cúng dường hoa sen, tiền thân của đức Phật Thích-ca là tiên nhân Thiện Huệ, gặp đức Phật hiệu là Phổ Quang. Thiện Huệ một lòng tha thiết mua hoa sen rải lên cúng dường đức Phật này. Nhưng vua đương thời đã ra lệnh thu mua tất cả hoa sen để cúng dường, nên Thiện Huệ không cách nào mua được. Sau đó, Thiện Huệ gặp được một cung nữ có bảy đóa hoa sen, ngài đã sẵn lòng mua lại với bất cứ giá nào. Cung nữ ngạc nhiên trước lòng thành của ngài và hỏi lý do. Thiện Huệ đáp rằng được gặp Phật rất khó. Nay có đủ duyên lành gặp Phật nên rất muốn cúng dường Ngài . Nguyện nhờ công đức này tương lai có thể thành tựu được nhất thiết chủng trí (thành Phật) như đức Phật. Nghe xong, cung nữ cảm động trước tấm lòng chí thành, nên đã tặng Thiện Huệ năm đóa hoa sen, còn hai đóa còn lại cũng gởi ngài cúng Phật giùm mình. Cô phát thệ nguyện sẽ làm vợ Thiện Huệ ở tương lai dù ngài có thực hành Đạo Bồ-tát. Khi gặp đức Phật Phổ Quang, Thiện Huệ tung năm đóa sen lên cúng dương, nhưng hoa không rơi xuống đất, mà kết thành tòa sen cho đức Phật ngồi lên trên. Thiện Huệ lại tung lên trời hai đóa hoa được gởi cúng, hoa cũng không rơi xuống mà đứng lơ lững hai bên đức Phật. Đức Phật Phổ Quang do đó liền thọ ký cho ngài sẽ thành Phật ở tương lai, hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Người cung nữ đó chính là Da-du-đà-la sau này (Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả).

    Như vậy, bà lão ăn mày và Thiện Huệ nhờ cúng đèn và hoa cho đức Phật với tâm chí thành và đại nguyện thành Phật và cứu độ chúng sinh nên mới được thọ ký thành Phật. Cho nên, chúng ta cúng dường hoa đăng cũng phải học theo chư Phật và Bồ-tát trong quá khứ. Nghĩa là, chúng ta cũng phải phát tâm Bồ-đề, phát nguyện Bồ-tát, trên cầu thành Phật dưới độ chúng sinh. Như vậy mới hợp với bản ý của chư Phật.
    Nói rõ hơn, đèn tượng trưng cho trí tuệ Bát-nhã, tức Đại Trí Văn-thù-sư lợi Bồ-tát:

Xin thắp cho nhau một ngọn đèn
Để cùng soi sáng giữa đêm đen
Soi đường cũng chính soi mình lại
Cho hết mê lầm đã bao phen.
(Hoa Đăng-Sakya Minh-Quang)

    Hoa tượng trưng cho nhân tu Bồ-tát hạnh, dùng để trang nghiêm quả chứng thành Phật, như Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-tát. Đây cũng là ý nghĩa Hoa Nghiêm trong Kinh Hoa Nghiêm:

Trang nghiêm vạn hạnh như hoa
Trùng trùng duyên khởi đều là nhất tâm
Không bị giả tướng gạt lầm
Thực tướng vô tướng duy tâm tạo thành!
(Sám Nguyện Hoa Nghiêm-Sakya Minh-Quang).

    Tóm lại, đèn và hoa tượng trưng cho trí tuệ Bát-nhã và tâm từ bi hành đạo Bồ-tát, tức nhân địa thành Phật. Cho nên, Pháp hội Hoa Đăng khế lý khế cơ, mượn nghi lễ để dẫn dắt chúng sinh đi lên con đường Phật đạo từ cạn đến sâu. Đây không những là cơ hội cho Phật tử dâng đèn hoa cúng dường chư Phật để được phước lành, kiết tường như nguyện, mà còn nhắc nhở người Phật tử phải phát tâm Bồ-đề, hành Bồ-tát đạo, thường vận dụng tuệ giác Bát-nhã trên con đường đang thành Phật của mình! Phật tử không thể ỷ lại vào đức Phật gia hộ hay cứu độ mình mãi, mà phải học theo con đường cứu khổ độ sinh của Ngài! Như vậy mới là người con Phật chân chính. Cho nên:

 

Nam-mô Dược Sư Lưu Ly Quang
Nguyện học hạnh Ngài cứu thế gian
Diệu Pháp cho đời vơi đau khổ
Trăm ngàn gian khó chẳng từ nan!
(Sám Nguyện Dược Sư-Sakya Minh-Quang)

    Nam-mô Lâm-tỳ-ni viên, vô ưu thọ hạ, thiện hiện đản sinh, Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
    Sakya Minh-Quang, 
    Viết tại chùa Duyên Giác San Jose, đêm Rằm Tháng Tư, 19/05/2019, ngày Phật đản sinh.

hinh thang 9-10.jpg
s513037892264040667_p18_i1_w233.jpeg
bottom of page