Cuộc Đời Tây Du Cầu Pháp
và Phiên Dịch Kinh Điển của Pháp Sư Nghĩa Tịnh
Tấn Tống Tề Lương đến Đại Đường
Cao Tăng cầu Pháp bỏ quê hương
Đi trăm về chỉ vài ba vị
Phần nhiều gởi xác lại bên đường!
Đường xa giá rét trời xanh thẳm
Sông cát mù trời, sức khó đương
Người sau có biết người xưa khổ?
Xem kinh sao lại quá tầm thường!
( “Thỉnh Kinh”, Sakya Minh-Quang dịch)
Bài thơ trên là của Pháp sư Nghĩa Tịnh義淨 (635-713). Cùng với Ngài Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva 344-413), Chân Đế (Paramārtha 499-569) và Huyền Tráng (602-664), Ngài Nghĩa Tịnh là một trong bốn nhà đại phiên dịch kinh điển được công nhận trong lịch sử Phật giáo Hán truyền. Ngài cũng là dịch giả Kinh Công Đức Tắm Phật và Kinh Vô Thường từ Phạn sang Hán, mà bút giả căn cứ vào đó để dịch sang Việt ngữ.
Pháp sư xuất gia năm bảy tuổi (641), đến năm mười lăm tuổi đã có chí lớn, muốn học theo Ngài Pháp HIển (337-422) và Pháp sư Huyền Tráng (602-664) sang Ấn Độ thỉnh kinh và phiên dịch kinh điển. Năm 655, Pháp sư nương Thiền sư Huệ Tập thọ giới cụ túc. Năm năm sau đó, Ngài chuyên tinh nghiên cứu Luật tạng. Năm 659, theo lời khuyên của Thiền sư Huệ Tập, Pháp sư đi các nơi tham học. Ngài đến Lạc Dương học Luận A-tỳ-đạt-ma và Nhiếp Đại Thừa Luận. Sau đó, Pháp sư lại đến Trường An học Câu-xá Luận và các bộ luận thuộc Duy Thức Tông. Tuy học rộng, Ngài có chí hướng chuyên sâu và hoằng dương giáo nghĩa Đại Thừa.
Theo lịch sử ghi nhận, đời Đông Tấn, có Pháp sư Pháp HIển (337-422) bộ hành vượt núi Thông Lãnh, sang Ấn Thỉnh Kinh và phiên dịch kinh điển. Hành trình cầu Pháp thỉnh kinh này Pháp sư Pháp Hiển ghi lại qua tác phẩm Phật Quốc Ký. Lại nữa, đời Đường có Pháp sư Huyền Tráng (602-664) vượt sa mạc Gobi sang Ấn Độ cầu học, đem kinh về nước để trọn đời phiên dịch và hoằng hóa. Cuộc hành trình cầu Pháp thỉnh kinh này được Ngài đích thân ghi lại trong quyển Đại Đường Tây Vực Ký.
Hâm mộ trước gương sáng cầu Pháp của hai vị đại sư trên, Pháp sư Nghĩa Tịnh từ năm mười lăm tuổi đã phát tâm Bồ-đề, nuôi dưỡng hùng tâm tráng chí Tây du cầu cầu Pháp. Nhưng mãi đến năm 671, khi đã 37 tuổi, Pháp sư Nghĩa Tịnh mới có thể lên đường Tây du cầu học. Thay vì đi đường bộ sang Ấn Độ thỉnh kinh như hai vị tiền bối, Pháp sư Nghĩa Tịnh đã chọn đi đường biển, từ Quảng Châu theo thương thuyền người Ba Tư đi Ấn Độ. Trên đường đi, Ngài ghé lại nước Thất-lợi-phật-thệ (Srivijaya), một quốc gia Đại Thừa Phật giáo, tồn tại từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 14, nằm trên một quần đảo thuộc Indonesia ngày nay.
Pháp sư Nghĩa Tịnh dừng lại Thất-lợi-phật-thệ sáu tháng để học Phạn ngữ, sau đó lên đường đến Ấn Độ. Ở Nam Ấn Độ, Pháp sư gặp đệ tử của Ngài Huyền Tráng là Đại Thừa Đăng (Mahāyāna-pradīpa), người quê quán tại Ái Châu tức Việt Nam ngày nay. Hai vị đồng hành đi chiêm lễ các Thánh tích xứ Phật và học ngôn ngữ. Ngài Đại Thừa Đăng một Cao Tăng người Việt trên hành trình chiêm lễ và cầu Pháp, đã tịch tại chùa Bát-niết-bàn thành Kusinara lúc hơn sáu mươi tuổi.
Năm 675, Ngài Nghĩa Tịnh theo học tại Nalanda, một trung tâm giáo dục lớn và sớm nhất của Phật giáo thời bấy giờ ở Ấn Độ. Đây cũng được công nhận là trường đại học nội trú đầu tiên trên thế giới, được thành lập vào năm 427 BC. Nhiều bậc đại học giả Phật giáo Đại Thừa uyên bác, có tu có chứng đã học và giảng dạy tại đây. Ngài Huyền Tráng từng tham học nơi đây trước đó, và Pháp sư Nghĩa Tịnh cũng theo chân Ngài Huyền Tráng, tu học tại Nalanda mười năm, từ năm 675 đến năm 685. Ngài đã thân cận các bậc danh đức như Ngài Bảo Sư Tử học các môn như Du-già, Trung Quán, Câu-xá, Nhân minh v.v….
Ngoài việc tham học tại Na-lan-đa, Pháp sư Nghĩa Tịnh còn nhiều lần đi đến các Đạo tràng, chùa tháp… để tâm sưu tầm văn bản kinh điển Phạn văn, lo việc dịch thuật. Ngài sưu tầm gần bốn trăm bộ kinh điển Phạn ngữ, gồm hơn năm mươi ngàn bài kệ tụng. Năm 687, Ngài lên đường trở về nước cũng bằng đường hàng hải. Trên đường, Ngài ghé lại nước Thất-lợi-phật-thệ trước đó, lưu lại đây để lo việc phiên dịch. Năm 691, Ngài cho người về nước dâng lên triều đình những kinh sách mình đã phiên dịch, bao gồm quyển ký lục giá trị Nam Hải Ký Quy Truyện 南海寄歸傳. Đến năm 695, Ngài mới trở về Lạc Dương, được triều đình tiếp đón nồng hậu. Võ Tắc Thiên đích thân ra cổng thành đón.
Pháp sư ban đầu đầu được sắp đặt ở chùa Phật Thọ Ký, cùng với các Ngài Thật-xoa-nan-đà, Phục Lễ, Pháp Tạng…. dịch Kinh Hoa Nghiêm. Đến năm 700, Ngài mới tự tổ chức dịch trường, tự mình dịch thuật. Ngài dịch kinh đến năm 711 thì ngưng. Theo ghi nhận, những kinh điển mà Ngài phiên dịch, chú thích, và soạn thuật có tất cả có 61 bộ, gồm 239 quyển. Tuy nhiên, theo sách Trinh Nguyên Lục貞元錄, mục “Sắc Tiến Phúc Tự Phiên Kinh” 敕薦福寺翻經 ghi có 107 bộ, 428 quyển. Có lẽ vì sự mất mát vì hoàn cảnh và theo thời gian, cũng như cách thức ghi nhận khác nhau, nên có sự bất đồng.
Pháp sư Nghĩa Tịnh tuy dịch thuật phạm vi rộng rãi, bao gồm cả ba tạng kinh, luật, luật, nhưng chuyên về luật bộ. Ngoài thời gian phiên dịch kinh điển ra, Ngài còn để tâm dạy dỗ học trò hành trì giới luật trong sinh hoạt hằng ngày. Ví dụ như Ngài dạy đệ tử sử dụng đãi lọc nước, dùng tịnh bình để tẩy uế, nghiêm thủ quy cũ, lập nên phong phạm mới. Học Tăng truyền nhau tập học phong phạm này, lan khắp kinh đô, được mọi người xưng tán. Năm 713, Pháp sư Nghĩa Tịnh viên tịch ở Viện phiên dịch kinh điển (phiên kinh viện) chùa Đại Tiến Phúc ở Trường An, trụ thế bảy mươi chín năm.
Qua tiểu sử của Ngài Nghĩa Tịnh, chúng ta một phần nào thấy được công đức của người xưa. Tiền nhân đã không quan tâm đến hạnh phúc cá nhân, sẵn sàng hy sinh thân mạng, từ giã quê hương, lên đườnng Tây du cầu Pháp. Vì Chánh Pháp và chúng sinh, nhiều người đã bỏ thân nơi sa mạc, núi rừng hay trong đại dương mênh mông. Chỉ một ít người thành công, được lịch sử ghi nhận, như Ngài Pháp Hiển, Huyền Tráng, Nghĩa Tịnh…. Cảm xúc trước điều này, trước đây bút giả đã viết:
Người vượt núi rừng sa mạc
Biển khơi gió bão vô thường
Sống chết bỏ ngoài suy nghĩ
Thương đời một quyết lên đường!
Vì đạo dấn thân cõi hiểm
Cung tên tà ác khắp nơi
Một giáp ca-sa an nhẫn
Gươm tuệ vô úy sáng ngời!
(Tri Ân Lịch Đại Tổ Sư-Sakya Minh-Quang)
Hôm nay, trong khóa tu mùa xuân “Nuôi Dưỡng Phật Sơ Sinh”, đại chúng thọ trì đọc tụng Kinh Công Đức Tắm Phật do Ngài Nghĩa Tịnh dịch từ Phạn sang Hán, bút giả dịch từ Hán sang Việt. Nhân đó, bút giả biên soạn lại cuộc đời Tây du cầu Pháp và phiên dịch kinh điển của Ngài Nghĩa Tịnh để giới thiệu cùng đại chúng. Kính mong mọi người có duyên đọc được, cùng phát Bồ-đề tâm, “không nỡ chúng sinh khổ”, “không nỡ chánh pháp suy”, để hộ trì và hoằng dương Chánh Pháp.
Nam-mô Công Đức Lâm Bồ-tát Ma-ha-tát.
Sakya Minh-Quang viết ngày 04 tháng 05, 2025 tại Tổ Đình Thiện Tường.

