Vu Lan Nhớ Mẹ qua Mười Bài Thi Kệ
1. Dẫn nhập
Mỗi năm vào mùa Vu-lan Báo Hiếu, người con Phật Việt Nam khắp nơi đều trì tụng Kinh Vu-lan và Kinh Báo Phụ Mẫu Trọng Ân. Công đức phiên dịch kinh này là của Hòa thượng Thích Huệ Đăng (1873-1953), vị thành lập Thiên Thai Thiền Giáo Tông ở Bà Rịa vào năm 1935, tiếp theo phong trào Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam đầu thế kỷ 20. Tháng bảy Vu-lan, gương sáng Đại Hiếu của Tôn giả Mục-kiền-liên, phước điền vô thượng của Chư Tăng, và ân tình vô biên của Mẹ… lại được vang vọng khắp thế gian qua những lời kinh du dương trầm bổng. Không biết từ khi nào, những câu kinh mộc mạc sau đây đã đi vào lòng bút giả:
Đàn ông xương trắng nặng hoằng
Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?
Bởi đàn bà sinh đẻ mà ra
Sinh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sửa hòa nuôi con…
Lại nữa,
Thế Tôn lại bảo A-nan:
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin.
Điều thứ nhất giữ gìn thai giáo,
Mười tháng trường chu đáo mọi bề.
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê,
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần…
![hinh 7.jpg](https://static.wixstatic.com/media/dc45f9_b6bae927d2624058a21f0a5a39bbb825~mv2.jpg/v1/fill/w_249,h_276,al_c,lg_1,q_80,enc_avif,quality_auto/hinh%207.jpg)
Một trăm lần đọc là một trăm lần nhớ Mẹ, thương Mẹ và đau lòng vì Mẹ! Trong tâm tưởng và cảm xúc này, nhân mùa Vu-lan Báo Hiếu, bút giả xin giới thiệu đại chúng “mười bài thi kệ về ân mẹ” trong Kinh Báo Hiếu hay Phụ Mẫu Ân Trọng Nan Báo Kinh.
2. Giới thiệu văn bản
Mười bài thi kệ về ân mẹ, theo thể ngũ ngôn bát cú (tám dòng năm chữ) bên Hán văn, đã được bút giả dịch ra tiếng Việt bằng thể thơ thất ngôn bát cú (bảy chữ tám dòng) với tựa là “Mười Công Ơn Mẹ”. Đây là một trong những vần thơ tuyệt tác nói về ân tình mà mẹ đã dành cho con, từ lúc mới cấn thai cho đến khi mẹ trút hơi thở cuối cùng! Tác giả những bài thi kệ này vô danh, nhưng chắc chắn đó là một nhà thơ Phật tử nào đó, đã nhiệt tâm quảng bá tư tưởng hiếu đạo trong Phật giáo trong hoàn cảnh xã hội văn hóa phương Đông, chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo.
Về mặt mặt văn bản, mười bài thi kệ này có xuất xứ từ Phụ Mẫu Ân Trọng Nan Báo Kinh父母恩重難報經, hay Kinh Khó Đền Đáp Ơn Nặng của Cha Mẹ, gọi tắt là Kinh Báo Hiếu. Tuy dịch giả của bản kinh được ghi nhận là Cưu-ma-la-thập, nhưng một số Tôn đức thuở xưa như Đại sư Liên Trì cuối nhà Minh hay các học giả hiện nay đều chỉ ra kinh này được biên tập ở Trung Quốc, không có trong Đại Tạng Kinh. Tuy nhiên, bản kinh này lại được nhiều người biết đến hơn so với bản kinh có tựa đề tương tự trong Đại Tạng Kinh. Đó là Kinh Phật Thuyết Phụ Mẫu Ân Nan Báo Kinh 佛說父母恩難報經 do An Thế Cao dịch. Có lẽ, đây là vì ngoài nội dung hiếu đạo được trình bày một cách đơn giản, quan trọng hơn, bản kinh này còn có những bài kệ tụng mang nét đẹp thi ca, dễ hiểu dễ nhớ, nên đã đi sâu vào lòng của số đông Phật tử.
Theo thiển ý của bút giả, “Phật Pháp bất ly thế gian pháp”, trong năm thừa Phật Pháp vẫn có nhân thiên thừa là thế gian cọng pháp, tức có phần chia sẻ chung với pháp thế gian. Lại nữa, Đại Trí Độ Luận nói: “Phật Pháp chẳng phải chỉ là những gì đức Phật chính miệng nói ra, mà tất cả những lời lành và chân thật, những lời hay đẹp và vi diệu trong thế gian đều xuất phát từ trong Phật Pháp.” Cho nên, tuy bản Kinh Báo Hiếu không phải do ngài Cưu-ma-la-thập phiên dịch, có người cho là ngụy kinh, nhưng vẫn không ngoài Phật Pháp!
Ngụy kinh là vấn đề phức tạp, được bàn cãi nhiều giữa các học giả trong giới Phật học, có dịp bút giả xin trình bày ở chỗ khác. Ở đây chúng ta chú trọng đến “học Phật” (emulating the Buddha) hơn là “Phật học” (Buddhist studies). Trên thực tế, đứng về mặt nội dung và ảnh hưởng khuyến thiện, bản kinh này đã góp một phần quan trọng trong việc hoằng dương Hiếu đạo trong Phật giáo cho quần chúng xã hội từ xưa đến nay. Huống chi, hơn nửa thế kỷ từ khi có bản dịch tiếng Việt, những lời kinh về công ơn cha mẹ của kinh này đã đi sâu vào lòng người Phật tử Việt Nam, góp phần đưa Đạo vào Đời, giáo dục đạo đức tâm linh cho rất nhiều quần chúng Phật tử tại gia.
3. Mười Bài Thi Kệ Về Ân Mẹ
Sau đây bút giả xin giới thiệu bản dịch thơ thất ngôn bát cú mười bài thi kệ ân mẹ, bao gồm phần phiên âm và chữ Hán để người đọc có cơ sở đối chiếu. Phiên dịch, nhất là dịch thơ, là sự tương tác giữa dịch giả với tác giả, và có sáng tạo nhất định của người dịch. Cho nên, bút giả chú trọng việc dịch sát ý hơn dịch sát lời. Bút giả cũng cố gắng thể hiện phần đối ngẫu trong bản dịch, chẳng những mong đạt được tín (trung thực) và đạt (sáng tỏ), mà còn nhã, tức nét đẹp cổ kính, đối xứng của thơ Đường Luật.
1. Ân thứ nhất: giữ gìn thai nhi
Nhân duyên nhiều kiếp đến thọ thai
Mẹ dưỡng nuôi con mảnh hình hài
Từng tháng dần thành nên ngũ tạng
Mỗi tuần lần đủ cả mắt tai
Thân thể nặng nề như đá núi
Đứng đi cẩn trọng sợ lo hoài
Áo xiêm trang điểm không màng nữa
Tiều tụy như vầy hỏi vì ai?
2. Ân thứ hai: khổ lúc gần sinh
Mang thai mười tháng lắm chua cay
Gần đến ngày sinh nỗi đọa đày
Sáng sáng thân như người bệnh nặng
Chiều chiều tâm tợ bóng đêm dày
Nhọc nhằn cho mẹ thân lao khổ
Lo lắng vì con lệ chảy dài
Buồn thương than với người thân thuộc:
Nếu chết, con mình ở với ai?
3. Ân thứ ba: sinh con quên khổ
Ngày mẹ lâm bồn ngày lâm nạn
Ruột đứt gan rời chẳng thở than
Mệt ngất từng cơn, đau quặn thắt
Máu tuôn lai láng cảnh kinh hoàng
Sinh xong biết được con an ổn
Hạnh phúc còn hơn mẹ được vàng.
Niềm vui tâm tưởng vừa an định
Nỗi đau thể xác xé ruột gan.
4. Ân thứ tư: nhường con bùi ngọt
Công cha nghĩa mẹ thực cao sâu
Lo lắng khi con mới ấm đầu
Ngon ngọt phần con luôn an hưởng
Đắng cay về mẹ chẳng than sầu
Tình sâu như biển, lòng không nỡ
Nghĩa nặng bằng non, nghĩ lại đau
Chỉ mong con được đời no đủ
Mẹ có nề chi kiếp dãi dầu.
5. Ân thứ năm: nhường khô nằm ướt
Mẹ nằm chỗ ướt chẳng phiền than
Miễn con khô ráo ngủ được an
Hai dòng sữa ngọt nuôi thân lớn
Đôi cánh tay mềm chắn gió hàn
Giật mình con khóc, mẹ thao thức
Đùa giỡn con cười mẹ hân hoan
Chỉ mong con được nhiều an lạc
An ổn riêng mình, mẹ chẳng màng.
6. Ân thứ sáu: thương yêu nuôi dưỡng
Mẹ là đất rộng suốt gần xa
Cha là trời lớn khắp bao la
Mẹ cha che chở như trời đất
Ân nghĩa rộng sâu tợ hải hà
Cho dù khuyết tật không chê bỏ
Nếu có lỗi lầm cũng thứ tha
Mang nặng đẻ đau tình cốt nhục
Nên luôn yêu quý đứa con nhà.
7. Ân thứ bảy: Tắm giặt đồ dơ
Vốn xưa mặt tựa đóa phù dung
Yểu điệu xinh tươi khó tả cùng
Mày xanh làm lợt màu liễu biết
Má hồng thêm thắm cánh đào nhung
Tháng năm sầu khổ mòn nhan sắc
Tắm giặt đồ dơ chẳng ngại ngùng
Thương con giờ mẹ đâu còn quản
Đổi thay tiều tụy cả hình dung.
8. Ân thứ tám: trông ngóng con về
Chết phải lìa xa khổ vô vàn
Sống mà ly biệt héo sầu gan
Con đi ngàn dặm thân sương gió
Mẹ ở quê nhà tâm chẳng an
Ngày đêm trông ngóng sầu trăm mối
Ngồi đứng khóc than lệ muôn hàng
Như vượn mất con đau đứt ruột
Sầu thương làm mẹ nát tâm can.
9. Ân thứ chín: xót thương sâu sắc
Ân tình phụ mẫu tợ hải hà
Khó mà đền đáp nghĩa mẹ cha
Sẵn lòng thay thế khi khó khổ
Lo lắng chung cùng lúc phong ba
Cầu học con đi quên quê cũ
Vò võ mẹ nằm nhớ phương xa
Nhọc nhằn con chỉ trong chốc lát
Xót xa lòng mẹ khó phôi pha.
10. Ân thứ mười: thương con trọn đời
Cha mẹ ân tình tợ biển khơi
Thương con giây phút chẳng tạm rời
Ngồi đứng không quên tâm thắc thỏm
Gần xa luôn nhớ, dạ đầy vơi
Cho dù đến lúc mẹ trăm tuổi
Cũng vẫn còn lo con tám mươi
Tình mẹ bao la không bờ bến
Thương con đến hơi thở cuối đời.
4. Kết luận
Bút giả đã hoàn tất bản dịch “Mười Công Ơn Mẹ” này vào năm 2000. Bài kinh này được in trong quyển Nghi Thức Huân Tu Hằng Ngày, gồm các kinh văn do bút giả phiên dịch và biên soạn. "Văn dĩ tải đạo". Cho nên, mong rằng độc giả, không những thưởng thức phần văn chương của bản dịch, mà còn có thể cảm nhận sâu sắc hơn về công ơn cha mẹ, để có thể hiếu thảo, tự mình tu học và tạo duyên giúp cho mẹ tu học. Như vậy mới xứng đáng là một người con Phật chánh tín.
Nam-mô Thường Tri Ân Bồ-tát Ma-ha-tát.
Tu Viện Thiện Tường,
Mùa Vu Lan Báo Hiếu, ngày 20 tháng 08, 2021
Sa-môn Sakya Minh-Quang.
![s513037892264040667_p18_i1_w233.jpeg](https://static.wixstatic.com/media/dc45f9_22b9042c0f8b42768b013a97feea2b3d~mv2.jpeg/v1/fill/w_60,h_56,al_c,q_80,usm_0.66_1.00_0.01,enc_avif,quality_auto/s513037892264040667_p18_i1_w233.jpeg)